Chữ Quốc ngữ Việt Nam có từ bao giờ, hình thành ra sao?

Chữ Quốc ngữ Việt Nam có từ bao giờ là một trong những câu hỏi của rất nhiều người khi không biết tiếng Việt được bắt nguồn từ đâu. Do đó, để biết được câu trả lời, bài viết dưới đây sẽ giải đáp thắc mắc của bạn đọc, cũng như nêu ra những khái niệm quan trọng về quốc ngữ.

Chữ Quốc ngữ Việt Nam có từ bao giờ, hình thành ra sao?

Năm 1625,  Alexandre de Rhodes có tên Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ, đi thuyền tới đất nước Việt Nam chúng ta, không ai ngờ rằng đây chính là thời điểm đánh dấu một bước ngoặt vô cùng lớn của ngôn ngữ Việt Nam. Đây chính là giai đoạn bắt đầu hình thành của chữ Quốc ngữ.

Trong 300 năm qua, chữ Quốc ngữ đã phải trải qua rất nhiều sóng gió rồi cuối cùng thay thế hoàn toàn được các chữ Nôm, chữ Hán để dần trở thành chữ viết của người Việt Nam. Chữ Quốc ngữ được phát triển dựa trên nguyên tắc ký âm bằng chữ cái Latin (a,b,c…) nên vô cùng đơn giản, vừa tiện lợi lại còn dễ học, dễ nhớ. Nhờ đó giúp cho rất nhiều người Việt Nam dễ dàng hội nhập với những nước dùng chữ Latin hơn so với những nước theo chữ Hán như Trung Hoa, Nhật Bản, Đại Hàn dân quốc hoặc hơn cả là những nước theo chữ Ả Rập.

Chữ Quốc ngữ có từ bao giờ

Nhờ sự hội nhập nhanh chóng bởi chữ quốc ngữ này giúp tác động một phần không hề nhỏ vào việc nâng cao dân trí của một quốc gia còn kém phát triển thời bấy giờ. Như hiện nay trong vấn đề giao dịch qua internet, chữ quốc ngữ đã có rất nhiều lợi thế hơn hẳn so với bộ chữ tượng hình như chữ Hán vừa khó đọc, khó viết, lại còn khó sử dụng nữa. Cũng chính nhờ đó, người Việt Nam chúng ta đã thật sự hoàn toàn thoát được ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, mặc dù lúc đó nước ta đã bị phương Bắc đô hộ 1000 năm. Đây là có thể nói là một cuộc chuyển biến vô cùng lớn.

Thời gian đầu các giáo sĩ Bồ Đào Nha đã chuyển thể 8000 từ ngữ phiên âm vào thế kỷ thứ 17, công dụng là để truyền giáo, dần dần chữ Quốc ngữ đã không ngừng phát triển để đáp ứng được mọi nhu cầu của người Việt trước những biến chuyển liên tục của văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội và hơn hết là khoa học kỹ thuật. Và khi đi tìm hiểu chữ Quốc ngữ Việt Nam có từ bao giờ thì giờ đây, chữ quốc ngữ đã có một chỗ đứng vững vàng trong ngôn ngữ Việt Nam và có tới hơn 200.000 từ để có thể phiên dịch cuốn từ điển Anh quốc Oxford Advanced Learner‘s English Dictionary mà không hệ khó khăn vì thiếu chữ, thiếu từ.

Nhiều quốc gia khác cũng có những cố gắng để dùng phương pháp ký âm bằng chữ Latin, trong đó có nước Nhật với chữ Rōmaji. Tuy nhiên, chữ Rōmaji vẫn còn đang ở trong tình trạng sơ khai, người Nhật vẫn chưa thể bỏ được chữ tượng hình của họ.

Alexandre và thời kỳ phát triển ra chữ Quốc ngữ

Ngoài việc tìm hiểu chữ Quốc ngữ Việt Nam có từ bao giờ bạn đọc thể tìm hiểu thêm về thời kỳ phát triển ra chữ quốc ngữ đầy đủ sau đây:

Vào thế kỷ thứ 17, các giáo sĩ phương Tây tới Việt Nam để truyền đạo. Trong những giáo sĩ gồm có cả giáo sĩ Alexandre de Rhodes, tên tiếng Việt của ông là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ, thuộc dòng tên (Jésuite) sinh năm 1591 ở Avignon miền nam nước Pháp. Năm 1625, ông đến tới Hội An ở Đà Nẵng và thời gian ông nhập cư ở đây bắt đầu học tiếng Việt từ một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Trong khoảng 20 năm, ông đã bị trục xuất tới 6 lần. Tuy nhiên, ông vẫn cố gắng tìm cách trở lại Việt Nam, lúc tới Đàng Tong của chúa Nguyễn Phúc Nguyên để truyền giáo, lúc đến Đàng Ngoài của chúa Trịnh Tráng. Cuối cùng đến năm 1645, ông đã bị chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất ra khỏi Việt Nam. Năm 1660, nghĩa 15 năm sau ông đã mất tại Ispahan ở Ba Tư. Tác phẩm của ông để lại lúc đó là cuốn từ điển Việt Bồ La.

Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum. Đây là một trong những cuốn từ điền đầu tiên được viết bằng ba thứ tiếng Việt, Bồ Đào Nha và Latin. Ông sử dụng chữ Latin nhưng lấy phần âm Bồ Đào Nha để ghi âm thành tiếng Việt. Ông cũng mượn thêm dấu lấy từ tiếng Cổ Hy Lạp là: sắc, huyền, ngã… ) để sử dụng cho 6 thanh điệu của tiếng Việt: ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng.

Chữ Quốc ngữ Việt Nam có từ bao giờ 2

Đây là tác phẩm văn xuôi sử dụng chữ quốc ngữ đầu tiên được tác giả viết. Tác phẩm này sử dụng ngôn ngữ bình dân của người Việt vào thế kỷ 17. Thông qua tác phẩm, chúng ta có thêm rất nhiều dữ kiện để nghiên cứu tiếng nói của người Việt vào thời gian đó.

Cố Alexandre de Rhodes không phải người tiên phong khai sinh ra chữ quốc ngữ Việt Nam. Đúng hơn, ông chỉ là một người có công lớn trong việc hệ thống hóa ký âm tiếng Việt sử dụng chữ Latin và cũng phổ biến chữ Quốc ngữ thông qua việc in cuốn tự điển Việt Bồ LÀ vào năm 1651 tại Roma. Trước đó, vào thế kỷ 16 đã có những giáo sĩ đến từ phương Tây tới Việt Nam truyền giáo. Họ đã tìm cách phiên âm tiếng Việt với chữ Latin để phù hợp cho việc giảng đạo mà không cần phải biết đọc hoặc biết viết chữ Hán, chữ Nôm. Nguyên nhân chính là chữ Hán đối với học vừa khó đọc lại vừa khó viết, cùng với đó còn cả chữ Nôm, rắc rối hơn rất nhiều. Chữ Nôm dựa hoàn toàn vào chữ Hán nên muốn học được chữ Nôm thì cần phải học, hiểu chữ Hán trước và ngoài ra chữ Nôm không được thống nhất do đó mỗi người có thể viết theo một cách khác nhau.

Cố Alexandre de Rhodes sáng tạo ra chữ Quốc ngữ Việt Nam

Những giáo sĩ dòng tên gốc Bồ Đào Nha như Francisco de Pina, Gaspar d’Amaral, Antonio Barbosa…. Đều là những người đi tiên phong trong công việc khai sáng ra chữ quốc ngữ. Francisco de Pina đã từng mở hẳn trường dạy tiếng Việt cho nhiều giáo sĩ ngoại quốc, trong đó phải kể đến là Alexandre de Rhodes. Trong lời tự cuốn từ điển Việt Bồ La, Alexandre de Rhodes có viết là ông dưa hoàn toàn trên 2 cuốn tự điển đã bị thất truyền để soạn cuốn sách của ông: từ điển Việt–Bồ của Gaspar do Amaral và từ điển Bồ-Việt của Antonio Barbosa.

Khoảng 100 năm sau, giám mục Adran sáng tác ra bộ từ điển Việt – Latin Dictionarium Anamitico-Latinum (năm 1773) được chính ông biên soạn. Tác phẩm được viết bằng chữ Latin, chữ Nôm và cả chữ Quốc ngữ. Ngoài ra, tên Việt Nam của ông được gọi là Bá Đa Lộc hay còn gọi là Cha Cả, tên tiếng pháp là Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine, sinh năm 1741 tại Pháp và mất năm 1799 tại Sài Gòn. Đặc biệt, ông cũng là một trong những người đã từng giúp Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn. Nên sau khi ông mất đi, ông được nhà Nguyễn sắc phong cho danh hiệu Bi Nhu Quận Công.

Sau đó, năm 1838 giáo sĩ Tabert đã cùng với linh mục Philipphê Phan Văn Minh in sách tại Ấn Độ, đặt tên cuốn từ điển đó là Anamitico-Latinum Nam Việt-Dương Hiệp Tự vị hay còn được gọi là Tự điển Tabert.

Đáng nói nhất là gần đây trước năm 1975, nhà nước đã tìm thấy được một số tác phẩm được viết bằng chữ Quốc ngữ của Philipphê Bỉnh ở Lisabon, thủ đô của Bồ Đào Nha. Mọi người cũng chỉ biết rằng ông Philipphê Bỉnh sinh ra tại Hải Dương vào năm 1759, ngoài ra tiểu sử của ông không ai nắm rõ. Ông thụ phong Linh Mục dòng Tên năm 34 tuổi và ba năm sau ông sang Bồ Đào Nha có sứ mệnh là xin vua Bồ Đào Nha can thiệp với tòa thánh La Mã bãi bỏ lệnh đóng của dòng Tên ở Việt Nam. Ông đã sinh sống và làm việc ở đây đến cuối đời, tức năm 1832. Trong thời gian này, ông đã viết hơn 21 cuốn sách đều bằng chữ Quốc ngữ. Có cuốn thì in, có cuốn thì viết tay. Sách của ông biên soạn ra gồm những đề tài có tính cách biên soạn từ điển, ký sự, nhật ký…. Nhất là với tác phẩm “du ký Sách sổ sang chép các việc”. Cuốn sách này tác giả viết rất đầy đủ, trung thực những cái nhìn của ông về thời đại ông đang sinh sống và nơi ông đã đi qua. Đây là một trong những cuốn sách có chữ Quốc ngữ được người Việt tự viết lên, chứ không phải người ngoại quốc như trên, nên bộ sách này tương đối gần gũi với tiếng Việt thời bây giờ.

Vào thế kỷ 17, là thời điểm mà chữ Việt được khai sáng. Những tác phẩm được sáng tác vào thời kỳ này có chung đặc điểm là nhiều chỗ khó hiểu và tối nghĩa. Tuy mang tiếng ký âm từ tiếng Việt nhưng nhiều phát âm khác xa với tiếng Việt hôm nay. Nhưng từ khi sang thế kỉ thứ 18, chữ Quốc ngữ đã vào thời kỳ hoàn chỉnh. Những tác phẩm của Philipphê Bỉnh đã chứng tỏ rằng chữ nghĩa thời đó đã tiến gần với tiếng Việt tới ngày nay, từ đó cho thấy được sự phát triển mạnh mẽ của chữ Việt trong một thế kỷ qua.

Tuy nhiên, nói chung thì chữ quốc ngữ của thế kỷ 17 hay 18 vẫn chỉ sử dụng trong nhà thờ, để giảng đạo và chưa được truyền bá nhiều ra bên ngoài. Người Việt với tinh thần bài ngoài để sinh tồn, nên lúc này họ đã không chịu tiếp nhận chữ Quốc ngữ là chữ viết của mình. Phải tới cuối thế kỷ 19, chữ Quốc ngữ mới bắt đầu phát triển vượt bậc để trở thành đúng với cái tên của nó được đặt chữ của một quốc gia.

Trương Vĩnh Ký và thời kỳ sáng tạo ra chữ Quốc ngữ

Bắt đầu năm 1862, người Pháp đã tấn công và chiếm 3 tỉnh miền Đông của miền Nam Việt Nam và vào năm 1867 lấy nốt 3 tỉnh miền Tây còn lại, sau khi chiếm đoạt thành công họ bắt đầu xây dựng nền hành chính ở Việt Nam rập khuôn mẫu từ Pháp mang sang. Thời gian đầu, chữ Pháp được sử dụng trong mọi văn tự hành chính thay thế cho chữ Hán. Sau đó, dần dần chữ Pháp được thay thế bởi chữ Quốc ngữ.

Vào ngày 1.1.1879 chính quyền của thực dân Pháp chính thức ra nghị định bắt buộc Việt Nam phải sử dụng tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin trong hệ thống hành chính, mục đích rõ ràng là tách người Việt hoàn toàn ra khỏi ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa. Ban đầu, người Pháp một mặt thì cưỡng bách, một mặt thì nhẹ nhàng để cho người Việt đi học trường dạy chữ Quốc ngữ. Trường Trung Học Adran (1861 – 1887 ) là một trong những trường dạy Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam được những linh mục ở Sài Gòn hướng dẫn. Sau đó vào năm 1954, trường Adran Sài Gòn chia ra thành 2 trường: Trung học Võ Trường Toản và Trung học Trưng Vương.

Cùng với việc mở trường dạy học, người Pháp còn sáng tác ra tờ Gia Định Báo (1865 – 1897) là một trong những tờ báo in chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam được ra mắt vào năm 1865 tại Sài Gòn. Thời gian đầu, tờ báo này chỉ có nhiệm vụ là công cụ thông tin của Pháp, từ năm 1869 được giao cho Trương Vĩnh Ký làm Giám đốc và Huỳnh Tịnh Của làm Chủ bút. Từ lúc đó, tờ Gia Định Báo mới bắt đầu thật sự khởi sắc, vì được phát triển thêm những mục biên khảo, lịch sử, thơ văn, nghệ thuật… Tờ báo này đã góp phần không hề nhỏ vào việc cổ động học chữ Quốc ngữ, khuyến khích theo tân học, mở đường cho một sự sáng tác ra những thể thơ văn bằng chữ quốc ngữ và dần dần tạo nền móng cho sự nở rộ của báo chí Việt Nam sau đó.

Tạp chí Gia Định Báo viết bằng chữ quốc ngữ

Như chúng ta đã tìm hiểu chữ Quốc ngữ Việt Nam có từ bao giờ? Thì cố Alexandre de Rhodes là người góp rất nhiều công sức để sáng tạo ra bộ chữ quốc ngữ sơ khai cho dân tộc Việt Nam thời bấy giờ. Tuy nhiên, khi nói tới Gia Định Báo, thì không thể không nhắc tới Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898 ) còn có tên gọi là Petrus Ký làm giám đốc tờ báo. Kiến thức của ông rất đa dạng về nhiều mặt, trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học. Ông tham gia dịch sách chữ Hán, phiên âm ra chữ Quốc ngữ những bản cổ văn Việt Nam như: Truyện Kiều, Phan Trần, Lục Súc, Lục Vân Tiên, Gia Huấn Ca… ngoài ra ông cũng biên soạn chuyện khôi hài, chuyện đời xưa… Nhờ đó với 118 tác phẩm để lại cho hậu thế, trong đó có những sách nghiên cứu, sưu tầm, phiên âm dịch thuật trong đó gồm cả chục tác phẩm bằng Pháp văn. Ông thành thạo 27 ngoại ngữ, được phong làm Giáo sư Viện sĩ Pháp, được ghi tên trong Bách khoa Từ điển Larousse.

Sự nghiệp của ông nổi bất nhất là trong giai đoạn giao thời giữa văn hóa Đông Tây ở cuối thế kỉ 19 và đầu thế kỷ 20. Ông luôn cố gắng tìm cách, cổ vũ cho việc sử dụng chữ Quốc ngữ. Ông viết trên Gia Định Báo ngày 15.4.1867 “Chữ ấy chẳng khó đâu, ra công học một đôi tháng thì thuộc hết”.

Trương Vĩnh Ký nhà giáo dục yêu nước

Nhận ra được sự lợi ích của chữ Quốc ngữ, một thứ chứ dễ đọc dễ viết, do đó vào thế kỷ 20, một số trí thức Việt Nam như Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc… đã đứng ra mở ở Hà Nội trường Đông Kinh nghĩa thục để đẩy mạnh phong trào canh tân đất nước. Trường mở ra dạy hoàn toàn miễn phí, mục đích là tăng cường dân trí. Trường nhanh chóng nổi tiếng, sau này trở thành một phong trào. Chủ trương của trường là bỏ lối học từ chương khoa cử, theo tân học thực tiễn, sử dụng chữ quốc ngữ trong những hoạt động văn hóa và giáo dục thường niên như: In sách giáo khoa, dịch thuật, báo chí.

Ngoài ra, trường cũng cử người đi khắp nơi để diễn thuyết, kêu gọi, cổ động giúp cải cách, bài trừ những hủ tục và còn sản xuất ra hai tờ báo Đăng cổ Tùng báo, Đại Việt Tân báo để làm cơ quan ngôn luận cho trường. Tuy ông chỉ sống được một giai đoạn ngắn, từ tháng 3 – 1970 cho tới tháng 11 – 1970, trường Đông Kinh nghĩa thục đã tạo nên một tiếng vang lớn vào lúc bấy giờ. Những câu thơ, câu vè đã được trường đề ra kêu gọi mọi người bỏ cũ, theo mói, học chữ Quốc ngữ vẫn còn đạt giá trị cho tới ngày nay.

Những người phát triển thêm chữ Quốc ngữ

Như câu hỏi chữ Quốc ngữ Việt Nam có từ bao giờ? được chúng tôi giải thích là từ năm 1625 do cố Alexandre de Rhodes có tên Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ phát minh. Trong 300 năm qua, chữ Quốc ngữ đã có rất nhiều tiến bộ và phát triển. Và kề từ đó đến nay, trong lịch sử phát triển chữ Quốc ngữ không thể vắng bóng sự đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh.

Nhà báo Nguyễn Văn Vĩnh

Ông Nguyễn Văn Vĩnh sinh năm 1882 – 1936, ông đã mở nhà in đầu tiên tại Hà Nội, làm chủ bút tờ Đăng cổ tùng báo (3.1970 – 11.1907), là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở Hà Nội và đây cũng còn là một tờ báo đầu tiên được tư nhân thành lập ra.

Tờ Đăng cổ tùng báo đã đánh dấu một kỷ nguyên mới của báo chí Việt Nam, không chỉ đơn thuần hoạt động trong phạm vi văn hóa nghệ thuật mà còn đi vào trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội và hơn nữa phản ánh cuộc sống thực tại ở Việt Nam vào thời kỳ đó. Đứng trước các phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục đang ngày một bùng nổ, người Pháp đã phải chính thức đóng cửa Đăng cổ tùng báo, bởi tờ báo này dám cổ vũ cho tự do, dân chủ. .

Đến năm 1913, ông phát triển ra tờ Đông dương Tạp chí (1913 – 1919 ) để truyền bá tới tất cả mọi người chữ Quốc ngữ và tư tưởng Tây Âu bằng những tác phẩm của nước ngoài do ông dịch như: Thơ ngụ ngôn của La Fontaine, Những người khốn khổ, tiểu thuyết của Victor Hugo… Ông còn dịch thêm truyện Kiều sang tiếng Pháp. Ông cũng thành lập ra hội Trí Tri ( Hà Nội), Hội dịch sách và là người Việt Nam đầu tiên gia nhập Hội nhân quyền Pháp. Không những thế ông còn hoạt động cho người Đông Kinh nghĩa thục khi Phan Chu Trinh, người phát động ra phong trào Duy Tân, bị bắt vào năm 1908, ông đã cùng với 4 người pháp ký tên đồi Pháp bắt buộc phải trả tự do cho Phan Chu Trinh.

Cuộc đời của ông gắn liền với một chuỗi dài của ngày tháng cống hiến cho đất nước, cho văn học, cho báo chí Việt Nam nước nhà thời bấy giờ. Ông cũng nhắn nhủ lại cho hậu thế rằng: “Nước Nam ta mai sau này hay dở cũng ở chữ Quốc Ngữ”. Nguyễn Văn Vĩnh và Trương Vĩnh Ký được nhiều người sau này vinh danh là “Ông tổ của nghề báo Việt Nam”.

Nhà văn Phạm Quỳnh

Trong công cuộc phát triển của chữ Quốc ngữ, không thể không nhắc tới sự đóng góp quan trọng của Phạm Quỳnh (1892 – 1945). Ông bút hiệu là Thượng Chi, ông xuất thân là một nhà văn hóa, nhà văn và nhà báo. Ông đã sáng tác ra rất nhiều bài về văn học, triết học, tùy bút và chuyển thể những tác phẩm của Pháp sang tiếng Việt. Những tác phẩm của ông đều được đăng lên trên tờ Nam Phong tạp chí (1917 – 1934) do ông làm chủ nhiệm và chủ bút.

Tạp chí được những nhà phê bình, cùng với nhân dân đánh giá cao về mặt trí thức và tư tưởng. Có người còn cho rằng Nam Phong Tạp Chí giống như một bộ bách khoa toàn thư của Việt Nam đầu thế kỷ 20, chỉ cần đọc đều đặn tạp chí này là đã người đọc sẽ có một số vốn kiến thức căn bản mà không cần phải biết chữ pháp hoặc là chữ Hán. Ông viết nếu chúng ta biết giữ gìn văn hóa của dân tộc, biết giữ gìn tiếng nói, chữ viết của dân tộc thì không lo sợ bị mất nước:

“Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”

Từ năm 1933 trở đi, văn học Việt Nam có rất nhiều biến chuyển vô cùng mạnh mẽ, đó là sự ra đời của Tự Lực Văn Đoàn bởi Nguyễn Tường Tam cùng với Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam… khởi xướng lên. Đây là một tổ chức văn học đầu tiên ở Việt Nam có tuyên ngôn và tôn chỉ (10 điều). Được phát động chủ yếu là viết văn, làm báo và in ra sách. Họ ra được 2 tờ tuần báo Phong hóa( 1932 – 1936) và Ngày nay (1936 – 1946). Tự Lực Văn Đoàn đã tiên phong trong lĩnh vực tiểu thuyết mới và thơ mới. Tuy có xu hướng mang tính chất lãng mạn, nhưng luôn đem đến tinh thần đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do, bình đẳng cho con người. Đây là một dạng tiểu thuyết luận đề, sử dụng một câu chuyện hư cấu để thể hiện nhân sinh quan của tác giả.

Kết luận

Như vậy sau 1 thời gian tìm hiểu về câu hỏi chữ Quốc ngữ Việt Nam có từ bao giờ người đọc cũng đã hiểu được về cội nguồn của chữ quốc ngữ, cũng như những người đã có công xây dựng nên chữ Quốc ngữ cho dân tộc Việt Nam ta.

Năm 1625 là năm Alexandre de Rhodes đặt chân đầu tiên lên tới Hội An ở Đà Nẵng. Và sau đó không ai ngờ rằng 300 năm sau chính sự hiện diện của ông đã giúp cho người Việt có một chữ viết hoàn chỉnh, đó là chữ Quốc ngữ. Một dạng chữ vừa dễ học, dễ đọc, dễ viết và nhờ đó chữ Quốc ngữ đã đóng góp vô cùng lớn lao vào việc mở mang dân trí, giảm thiểu tình trạng mù chữ. Chỉ cần một thời gian ngắn vài tháng là có thể sử dụng được, trong khi đó chữ Hán cần mất một thời gian lâu hơn, trung bình khoảng 2 – 3 năm để nhớ được những mặt chữ của ba bốn ngàn từ thường hay dùng.

Do đó, tiếng nói của một dân tộc quan trọng biết bao nhiêu. Muốn gìn giữ tiếng nói thì cần phải có chữ viết lưu giữ lại được tiếng nói. Do đó, địa vị của chữ viết cũng không kém phần quan trọng. Vào cuối thế kỷ 19, khi chữ Quốc ngữ bắt đầu xuất hiện và đẩy lùi chữ Hán đi xa mãi, văn học Việt Nam bùng dậy và nở rộ vì thoát khỏi được cái nôi của văn hóa chữ Hán, hơn nữa trong đầu chúng ta không còn bị gò bó vì Tứ Thư Ngũ Kinh, cũng như không còn bị chế ngự bởi những điển tích bên Trung Quốc xa xôi nữa. Người Việt đã trở về đúng với cội nguồn tiếng Việt thật sự của mình.